Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 24-01-2025 2:17pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin trong nước
CN. Đặng Ngọc Minh Thư – IVF Tâm Anh
 
Tổng quan
Đối với những bệnh nhân thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), đánh giá nội mạc tử cung (NMTC) bằng phương pháp đo độ dày thường được thực hiện trước khi chuyển phôi để xác định khả năng tiếp nhận phôi. Độ dày NMTC là một yếu tố có thể can thiệp để tăng hiệu quả của chu kỳ IVF, tuy nhiên ngưỡng độ dày tối thiểu và tối đa vẫn là vấn đề tranh cãi.
 
NMTC mỏng có liên quan đến giảm tỉ lệ trẻ sinh sống, nhưng vẫn chưa xác định được độ dày thích hợp để chuyển phôi. Khi NMTC mỏng, lớp niêm mạc mỏng hoặc không có, khiến phôi làm tổ gần hơn với các động mạch và nồng độ oxy cao hơn không phù hợp cho quá trình làm tổ. Đến hiện tại, dữ liệu về độ dày NMTC ở cả chuyển phôi tươi và chuyển phôi đông lạnh đều không nhất quán. Ngoài ra, các tài liệu y văn và dữ liệu nghiên cứu về vấn đề này vẫn còn thiếu ở Hoa Kỳ.
 
Hệ thống báo cáo kết quả phòng khám của Hiệp hội Công nghệ hỗ trợ sinh sản (SART) chứa dữ liệu từ các phòng khám IVF cung cấp các thông tin chi tiết về điều trị cho mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu này nhằm mục đích cung cấp kiến thức bằng phương pháp sử dụng dữ liệu hiện tại trong cơ sở dữ liệu SART để đánh giá mối tương quan giữa độ dày NMTC và trẻ sinh sống (LBR). Nghiên cứu đưa ra giả thuyết về mối tương quan ban đầu của độ dày NMTC và LBR; xác định xem có ngưỡng nào cho LBR ở mức ổn định và dưới ngưỡng thì bị suy giảm hay không.
 
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu tiến hành trên đầu vào với 586.239 chu kỳ, thu thập số liệu từ cơ sở dữ liệu của SART, thực hiện từ năm 2019 đến 2020 và một số chu kỳ chuyển phôi vào năm 2021 mà phôi được tạo từ năm 2019-2020. Thông số đánh giá chính là độ dày NMTC (tính bằng mm) và tỉ lệ trẻ sinh sống (có hoặc không) theo từng chu kỳ chuyển phôi. LBR được phân tích cho tất cả các chu kỳ và sau đó phân tầng theo loại chu kỳ (tươi so với đông lạnh) và thực hiện PGT (có hay không).
Tổng cộng có 244.001 chu kỳ được đưa vào phân tích và 286.552 chu kỳ bị loại trừ khỏi nghiên cứu.
 
Kết quả
Trong 244.001 chu kỳ nghiên cứu, có 100.491 (41,2%) chu kỳ FET có PGT; 96.249 (39,4%) FET không có PGT và 47.333 (19,4%) chu kỳ chuyển phôi tươi. Độ tuổi trung bình khi bắt đầu chu kỳ là 35,1 tuổi. Chuyển đơn phôi chiếm 57,3% chu kỳ FET không có PGT và 72,3% chu kỳ FET có PGT. Chuyển phôi nang chiếm 87,9% tổng số chu kỳ.
Về độ dày NMTC, có 2.585 trường hợp <6 mm (1,1%); 7.051 trường hợp dày 6-7 mm (2%); 26.935 trường hợp dày 7-8 mm (11,0%); 50.041 trường hợp dày 8-9 mm (20,5%); 46.819 trường hợp dày 9-10 mm (19,2%) và 110.561 trường hợp dày hơn 10 mm (45,3%).
 
Xét về mối tương quan giữa độ dày NMTC và LBR, tỉ số chênh (OR) thể hiện thay đổi tương đối về tỉ lệ trẻ sinh sống trên mỗi 1 mm tăng độ dày NMTC. Phân tích tuyến tính đơn biến cho thấy mối quan hệ không tuyến tính giữa tỉ lệ trẻ sinh sống và độ dày NMTC ở điểm 9 mm. Do đó, OR riêng biệt được đưa ra cho 2 giá trị NMTC £ 9mm và >9 mm.
 
Độ dày NMTC tăng có liên quan đến LBR trong tất cả các loại chu kỳ cho đến ngưỡng 9 mm, sau đó LBR tăng tối thiểu. Trước 9 mm, mỗi 1 mm độ dày NMTC tăng lên có liên quan đến sự gia tăng tương đối về LBR là 19% đối với chuyển phôi đông lạnh có PGT (aOR: 1,19; 95% CI: 1,66-1,22), 13% đối với chuyển phôi đông lạnh không có PGT (aOR: 1,13; 95% CI: 1,09-1,16) và 15% đối với chuyển phôi tươi (aOR: 1,15; 95% CI: 1,09-1,20). Đối với giai đoạn phát triển phôi, trước 9 mm, mỗi 1 mm độ dày NMTC tăng lên có liên quan đến sự gia tăng tương đối về LBR là 16% đối với chuyển phôi phân chia (aOR: 1,16; 95% CI: 1,08-1,24) và 13% đối với chuyển phôi nang (aOR: 1,13; 95% CI: 1,09-1,18) trong chu kỳ chuyển phôi tươi; 15% đối với chuyển phôi phân chia (aOR: 1,15; 95% CI: 1,04-1,28) và 12% đối với chuyển phôi nang trong chu kỳ FET có PGT (aOR: 1,12; 95% CI: 1,09-1,14) và 18% trong chu kỳ FET không có PGT (aOR: 1,18; 95% CI: 1,15-1,20).
 
Bàn luận
Đây là nghiên cứu lớn nhất cho đến thời điểm hiện tại xác định mối tương quan giữa độ dày nội mạc tử cung và tỉ lệ trẻ sinh sống với dân số đa dạng và cỡ mẫu lớn tại Hoa Kỳ. Tỉ lệ trẻ sinh sống tăng lên khi độ dày nội mạc tử cung tăng lên đối với chuyển phôi tươi và đông lạnh có hoặc không có PGT cho đến ngưỡng 9 mm, sau đó tỉ lệ trẻ sinh sống sẽ ổn định. Không có độ dày nào trên 9 mm liên quan đến việc giảm tỉ lệ trẻ sinh sống.
 
Nguồn: Schmiech K, Li M, Chen LX, Dow MP, Baker VL. Association of Endometrial Thickness with Live Birth Rate: a Study Utilizing the Society for Assisted Reproductive Technology Clinic Outcome Reporting System. Fertil Steril. Published online January 2, 2025. doi:10.1016/j.fertnstert.2024.12.032
 
Các tin khác cùng chuyên mục:
Lịch nghỉ Tết Âm lịch - Ngày đăng: 05-02-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK
Loading...